Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012

Cây chó đẻ răng cưa -Diệp hạ châu- để trị bệnh viêm gan virut B

Cây chó đẻ răng cưa trị viêm gan virut B
 
Bệnh viêm gan do virut, đang là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất hiện nay. Như ta đã biết có tới 6 loại virut viêm gan: A, B, C, D, E, G. Trong đó, loại B, C, được coi là loại lây lan nhiều nhất. Trong y học cổ truyền, có phương cách dùng cây chó đẻ răng cưa để trị bệnh viêm gan virut B rất hiệu quả.
Vai trò của gan trong hoạt động sống của cơ thể
Gan giữ nhiều chức năng quan trọng trong hoạt động sống của cơ thể. Trước hết giữ vai trò chuyển hóa và tồn trữ các chất dinh dưỡng cho cơ thể, giúp cho việc điều hòa  glucose huyết, giải độc cho cơ thể, các chất độc được tạo ra  các sản phẩm ít độc và được thải ra ngoài theo đường thận.
Khi gan nhiễm virut viêm gan B (HBV),  các tế bào gan sẽ bị tổn thương, làm cho các hoạt động của gan bị trì trệ, kèm theo các triệu chứng mệt mỏi, kém ăn, buồn nôn. Khi phát bệnh, cơ thể bị sốt, đồng thời với các triệu chứng điển hình: vàng da, vàng mắt, nước tiểu đỏ, đau tức vùng hạ sườn phải... Khi đã có biến chứng chuyển thành xơ gan: bụng trướng to, đau bụng, tiêu chảy, nôn ra máu tươi, kèm theo tụt huyết áp, nặng hơn là hôn mê do suy gan nặng, suy thận cấp, lượng nước tiểu ít dần... Nhiều trường hợp có thể dẫn đến tử vong.
Chó đẻ răng cưa (Phyllantus  urinaria L., họ thầu dầu uphorbiaceae), cây mang tên này vì người ta thấy những con chó  sau khi đẻ thường đi ăn cây này. Cây còn có tên là diệp hạ châu.
Chó đẻ răng cưa là cây thuộc thảo. Toàn cây có màu xanh. Thân nhẵn, mọc thẳng đứng, mang cành nhỏ, cao khoảng  30-50cm, có khi tới 80cm. Lá mọc so le, lưỡng hệ, trông như lá kép. Phiến lá thuôn, dài 5-15mm, rộng 2-5mm, đầu nhọn hay hơi tù, mép nguyên, không cuống hoặc cuống rất ngắn, mặt dưới màu xanh lơ. Hoa đơn tính, nhỏ, hoa đực, mọc thành chùm 2-4 hoa, dọc theo phần ngoại biên của các cành nhỏ, có 6 lá đài hình elip, hoặc trứng ngược. Có 3 nhị, chỉ nhị hợp nhất thành cột mảnh. Hoa cái cùng gốc, dọc theo phần giữa và phần dưới của cành nhỏ, có 6 lá đài hình trứng. Bầu nhụy hình trứng hay hình cầu, có 3 vòi nhụy. Hoa không cuống rất ngắn, mọc ở kẽ lá, hoặc đầu cành, màu đỏ nâu. Quả nang, hình cầu nhỏ, đường kính 2-2,5mm, màu đỏ hơi xám nhạt, xếp thành hàng dọc. Hạt hình  ba mặt, hình trứng, màu nâu đỏ, hơi xám nhạt, có vân ngang. Mùa ra hoa từ tháng 4-6. Chó đẻ răng cưa mọc hoang ở nhiều nơi trên nước ta. Hiện đã được trồng với diện tích lớn để lấy nguyên liệu sản xuất thuốc trị viêm gan.
Công dụng của chó đẻ răng cưa
Trong những năm gần đây, trên thế giới và trong nước có nhiều công trình đã sử dụng  cây thuốc này để trị viêm gan B. Với liều 900mg/ ngày, có tới 50% yếu tố lây truyền của HBV trong máu đã mất đi sau 30 ngày sử dụng vị thuốc này. Để trị viêm gan vàng da, có thể dùng chó đẻ răng cưa 40g, mã đề 20g, dành dành 12g, sắc uống. 
 Người ta cho rằng chó đẻ răng cưa có tác dụng ức chế mạnh HBV- DNA (virut viêm gan B trên hệ mã di truyền) và làm cho virut bị đào thải, không bám vào được ADN của người. Những bệnh nhân viêm gan do HBV sau khi sử dụng thuốc có chó đẻ răng cưa, được phục hồi enzym transaminase từ 50-97%, bilirubin toàn phần trở về bình thường.
Trong khi sử dụng chó đẻ răng cưa để trị viêm gan HBV, cần chú ý phân biệt với một cây khác cùng họ, cũng mang tên chó đẻ răng cưa, còn có tên cam kiềm phyllantus niruri L., phân bố ở một số tỉnh  thuộc châu thổ sông Hồng (Thái Bình, Hải Dương...).
Về hình dạng thực vật, cây này cũng giống như cây thân xanh nói trên, song cây chỉ cao khoảng 5-10cm; thân, cành có màu tía đỏ, quả có màu đỏ. Nhân dân thường dùng toàn cây, sắc đặc lấy nước ngậm chữa đau răng lợi, hôi miệng, thông tiểu, thông sữa, đôi khi cũng dùng trị viêm gan vàng da.

Theo con số thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tính đến 14/5/2007, toàn thế giới có tới 2 tỷ người, chiếm khoảng hơn 30% dân số, đã bị nhiễm virut viêm gan B (HBV) và 400 triệu người đã “mang virut trong người kinh niên”. Theo con số thống kê, châu Á (Đông Nam Á, Ấn Độ...), có tỷ lệ viêm gan B cao nhất, có khoảng 260 triệu người mang virut kinh niên, chiếm 2/3 trong số 400 triệu nói trên. Ở Việt Nam cũng không nằm ngoài vùng dịch tễ lưu hành của HBV. Tính đến tháng 5/2007 khoảng 20% dân số (khoảng 16 triệu người) đang mang mầm bệnh HBV... Trong số đó, có khoảng 20% viêm gan B mạn tính chuyển thành xơ gan. Điều đáng lưu ý là có tới 70-80% bệnh nhân viêm gan không thể hiện triệu chứng gì rõ rệt.

 Uống cây chó đẻ – làm lui bệnh viêm gan B với tỉ lệ 59 %

Tôi bị sốt liên tục nhiều ngày, vàng da, vàng mắt, không ăn được, chân, tay, bụng và mặt bị sưng. Khám nghiệm bác sĩ khoa lây Bệnh viện Thống Nhất cho biết tôi bị bệnh viêm gan siêu vi B rất nặng. Tôi và gia đình, các đồng nghiệp rất lo lắng băn khoăn.
Gan tôi diễn biến xấu, đau âm ỉ vùng hạ sườn phải, chân bị sưng lại, người mệt kéo dài…
 Tôi về thăm lại đồng bào trước đây bao bọc giúp đỡ tôi trong kháng chiến. Bà con chỉ cho tôi cây chó đẻ.
Cách dùng: 50 gam/lần, uống liên tục sáu tháng; rồi dùng 30 gam/lần uống liên tục sáu tháng tiếp theo. Dùng 20 gam/lần, uống liên tục cho cả năm tiếp theo và dùng 15 gam/lần liên tục những năm sau đó đến khi lành bệnh. Về sau này tôi dùng không liên tục 5-10 gam nấu nước uống thay trà rất tốt.
Thế là tôi uống nước sắc từ cây chó đẻ đem lại kết quả không ngờ. Sau khi tôi uống nước sắc từ cây chó đẻ hai tháng liên tục của năm thứ ba (kể từ ngày tôi lâm bệnh) đến bệnh viện tái khám, bác sĩ cho biết bệnh gan tôi tiến triển rất tốt – gan không to, men gan hạ rất thấp, hạ sườn phải không còn đau, không còn mỏi mệt, ăn ngủ bình thường.
Theo y học cổ truyền, cây chó đẻ có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, tiêu độc, sát trùng, tốn ứ, thông huyết, điều kinh, thanh càn, hạ nhiệt...
Một số bài thuốc
Chữa viêm gan B thì dùng chó đẻ 30g, nhân trần 12g, sài hồ 12g, chi từ 8g, hạ khô thảo 12g, sắc (nấu) uống ngày 1 thang.
chữa viêm gan, vàng da, viêm thận đái đỏ, hoặc viêm ruột tiêu chảy, hoặc mắt đau sưng đỏ dùng cây chó đẻ 40g, mã đề 20g, dành dành 12g để sắc uống.
Chữa ăn không ngon miệng, đau bụng, sốt, nước tiểu màu sẫm dùng cây chó đẻ 1g, nhọ nồi 2g, xuyên tâm liên 1g. Tất cả các vị thuốc trên phơi khô trong bóng râm và tán bột. Sắc bột thuốc này và uống hết ngay một lúc. Uống mỗi ngày 3 lần (y học dân gian Ấn Độ).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét